Bước tới nội dung

Trà

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Lá trà)
Trà
Trà Long Tỉnh được hãm trong chén trà
Phân loạiThức uống dùng nóng hoặc lạnh
Quốc gia xuất xứViệt Nam, Trung Quốc[1]
Ra mắtLần đầu tiên được ghi chép tài liệu từ Trung Quốc vào năm 59 trước Công nguyên, mặc dù có lẽ bắt nguồn từ sớm hơn[2]
Hình vẽ lá trà (Camellia sinensis) từ Köhler's Medicinal Plants năm 1897

Trà (hay chè) là đồ uống phổ biến thứ hai trên thế giới (sau nước uống). Nó làm bằng cách ngâm , chồi, hay cành của cây trà (Camellia sinensis) vào nước sôi từ vài phút đến vài giờ. Lá trà có thể được oxy hóa (ủ để lên men), sấy rang, phơi, hay pha thêm các loài thảo mộc khác như hoa, gia vị, hay trái cây khác trước khi chế vào nước sôi. Trong phạm vi thức uống chế từ Camellia sinensis thì có bốn loại trà thật: Trà đen, Trà Ô Long, Trà xanhTrà trắng. Nước trà là nguồn caffein, theophyllinechất chống oxy hóa (antioxidant) tự nhiên và gần như không có mỡ, carbohydrate, hay protein. Nước trà có mùi thơm, vị hơi đắng và chát.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền thuyết Trung Quốc:

Tương truyền rằng, Thần Nông - vị vua huyền thoại của Trung Quốc với những đóng góp to lớn cho nền nông nghiệp và y học - đã nếm thử hàng trăm loại cỏ trong hành trình tìm kiếm thảo dược quý. Trong số đó, có đến 72 loại cỏ độc khiến ông suýt mất mạng. Nhờ có trà, Thần Nông đã may mắn giải độc và thoát khỏi nguy hiểm. Lần đầu tiên nếm thử trà, Thần Nông nhận ra đây là một loại thảo mộc đặc biệt với khả năng thanh lọc cơ thể. Nổi bật với vẻ ngoài độc đáo - chiếc bụng trong suốt như pha lê, Thần Nông có thể quan sát trực tiếp tác động của các loại cây cỏ sau khi nếm thử. Nhờ vậy, ông đã khám phá ra công dụng giải độc tuyệt vời của trà.[3]

Kể từ đó, Thần Nông thường xuyên sử dụng lá cây này để giải độc mỗi khi nếm phải cỏ độc. Ban đầu, ông đặt tên cho loại cây này là "Tra", có nghĩa là "kiểm tra", bởi vì ông sử dụng nó để thử nghiệm độc tính của các loại cỏ khác nhau. Về sau, chữ "Tra" được đổi thành "Trà", và đây chính là nguồn gốc của từ "Trà" trong lịch sử trà Trung Quốc.

Truyền Thuyết Việt Nam:

Dựa trên các bằng chứng khảo cổ và truyền thuyết, có thể khẳng định rằng trà có nguồn gốc lâu đời tại Việt Nam, xuất hiện từ thời kỳ Hùng Vương, cùng với bánh chưng và bánh dày[4].

Cổ tích Trương Chi - Mỵ Nương[5], một câu chuyện lãng mạn thời Hùng Vương[6] (2879 - 257 TCN), được xem là một trong những dấu ấn lịch sử về trà Việt Nam. Bên cạnh đó, các địa danh được nhắc đến trong truyền thuyết về Hùng Duệ Vương cũng cung cấp thêm bằng chứng. Cụ thể, một phi tần của vua Hùng đã trở về làng Văn Luông (nay thuộc xã Văn Phú, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) và truyền kỹ thuật trồng chè và bông cho người dân địa phương. Để ghi nhớ công lao này, các khu vực trồng chè và bông nơi đây đã hình thành nên những xóm làng mang tên Bãi Chè và Bông, tồn tại đến ngày nay.

Lịch sử phát triển ngành chè ở Cao nguyên Trung Kỳ gắn liền với sự kiện chính thức khởi động việc trồng cây chè vào năm 1924 tại các tỉnh Kon Tum, Pleiku, Đắk Lắk và Đồng Nai Thượng dưới thời Pháp thuộc. Sau giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong những năm 1930 với vựa chè trọng điểm B'Lao (Lâm Viên), ngành chè Việt Nam tiếp tục gặt hái thành công sau thống nhất, đạt sản lượng xuất khẩu 2.000 tấn/năm vào năm 1960 và vươn lên 1 triệu tấn vào năm 2007 với diện tích 125.000 ha. Hiện nay, chè Cao nguyên Trung Kỳ với các giống chè phổ biến như Shan Tuyết, Moka, Lishan... đã khẳng định được chất lượng và giá trị kinh tế, đóng góp quan trọng vào xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

Nguồn gốc trà từ nghiên cứu khoa học:

Truyền thuyết từ lâu đã lưu truyền rằng trà là sản vật quý giá của phương Nam. Tuy nhiên, khác với quan niệm phổ biến, nguồn gốc của trà thực chất không bắt nguồn từ vùng đất Trung Hoa, ít nhất là cho đến thời kỳ nhà Nguyên.

Lịch sử cổ đại Việt Nam, với nước Văn Lang tồn tại trong 2622 năm (từ 2879 TCN đến 258 TCN), hé lộ một bức tranh lãnh thổ rộng lớn hơn nhiều so với Việt Nam ngày nay. Vùng đất này trải dài từ phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc giáp Động Đình (nằm phía Nam sông Trường Giang), đến tận phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Vị trí địa lý độc đáo này cho thấy toàn bộ khu vực sản xuất trà từ thời kỳ xa xưa vốn thuộc về Việt Nam cổ - Nước Văn Lang.

Điều này càng được củng cố bởi các bản đồ lịch sử của nhà Hán, nhà Đường và nhà Tống, những triều đại Trung Quốc đương thời. Trên bản đồ của họ, khu vực Tây Nam Trung Quốc hiện nay hoàn toàn vắng bóng những ghi chép về cây trà.

Vì vậy, có thể nói rằng trà không phát triển trong ba triều đại này. Chỉ có nhiều tài liệu được người Trung Hoa viết và ghi chú lại thành sách nên trà mới được biết đến. Ví dụ như Thánh trà Lục Vũ chỉ xuất hiện trong thời đại Đường.

Tuy nhiên, trong dòng chảy lịch sử đầy biến động, do những cuộc chiến tranh liên miên giữa các quốc gia, khu vực trồng trà chủ lực đã dần chuyển dịch.

Nước Nam Chiếu, kế thừa truyền thống trà đạo từ vùng đất này, đã phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 10. Sau đó, triều Đại Lý, tồn tại từ năm 937 đến năm 1253, đã tiếp nối và đưa văn hóa trà Việt Nam lên một tầm cao mới.

22 đời vua xưng đế của Đại Lý, trong đó có Đoàn Chính Thuần, nhân vật được nhà văn Kim Dung hư cấu hóa trong tiểu thuyết võ hiệp lừng danh của mình, đã góp phần gìn giữ và phát huy truyền thống trà đạo.

Tuy nhiên, sau năm 1253, Đại Lý sụp đổ trước sự xâm lược của Nguyên Mông, và đến năm 1378, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã hoàn toàn tiêu diệt triều đại này.

Từ xa xưa, vùng đất Đại Lý (sau đổi thành phủ Đại Lý) đã nổi tiếng với những vườn trà xanh mướt, nơi người Bạch và người Di sinh sống. Khi di cư xuống phương Nam, họ mang theo văn hóa trà và kỹ thuật trồng trọt, góp phần thúc đẩy sự phát triển của trà tại các quốc gia như Việt Nam, Lào và Myanmar.

Trà Việt Nam trải qua giai đoạn phát triển rực rỡ sau thời nhà Minh. Đến thời nhà Thanh, trà tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong giao thương quốc tế, kết nối Việt Nam với thế giới bên ngoài.

Người phương Tây tiếp xúc với trà muộn hơn, do đó họ chỉ biết đến lịch sử trà Trung Quốc. Do thiếu hiểu biết về nguồn gốc trà Việt Nam, họ không thể khám phá lịch sử lâu đời và độc đáo của văn hóa trà tại nước Văn Lang. Năm 1976, ông M. K. Djemukhatze đã đến nghiên cứu vùng Trà cổ thụ trong hai năm. Áp dụng phương pháp sinh hóa thực vật, ông đã tìm thấy hóa thạch cây và lá trà từ thời đồ đá ở vùng đất tổ Hùng Vương, Phú Thọ. Tại Yên Bái, ông tìm thấy một vùng trà hoang với khoảng 40.000 cây. Nơi đây có ba cây trà cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, trong đó cây lớn nhất cao tới 9 mét và có vòng thân ba người ôm không xuể. Vùng Cao Bắc Lạng còn có những cây trà hoang cổ thụ cao tới 18 mét. Kết luận của ông xác định Việt Nam chính là một vùng quê hương của cây Trà trên thế giới. Đây là nguồn gốc đầu tiên của cây trà Việt Nam.

Nguồn gốc thứ nhì về trà tại Việt Nam:

Chuyến du hành của cây trà bắt đầu tại Tứ Xuyên, nơi được mệnh danh là "quê hương của trà". Nơi đây, những cây trà cổ thụ mọc hoang dã, cao lớn, với những chiếc lá to bản và chồi không có lông. Hoa trà nở rộ với 8-10 cánh, mang hương thơm dịu nhẹ và tinh tế. Hạt trà có hình dạng độc đáo, giống như những quả bóng nhỏ bé ẩn mình trong lớp vỏ dày.

Từ Tứ Xuyên, cây trà tỏa ra bốn hướng, mỗi hướng mang theo một câu chuyện riêng biệt, một hành trình độc đáo, và tạo nên sự đa dạng phong phú cho thế giới trà Trung Hoa.

Con đường thứ nhất: Hành trình hướng về phía nam, đưa cây trà đến với những vùng đất tràn đầy nắng gió như Quảng Tây, Quảng Đông và Đảo Hải Nam. Tại đây, dưới sự tác động của khí hậu nhiệt đới, cây trà dần thay đổi hình hài. Kích thước của cây thu nhỏ lại, lá trở nên mỏng manh hơn, và chồi trà bắt đầu xuất hiện lông tơ mịn màng. Hoa trà cũng có nhiều cánh hơn, thường từ 12 đến 15 cánh, mang hương thơm nồng nàn và quyến rũ. Hạt trà hình thoi, nhỏ nhắn và có màu nâu sẫm.

Ba con đường còn lại: Mỗi con đường mang theo một câu chuyện khác biệt, dẫn dắt cây trà đến những vùng đất mới, nơi nó tiếp tục thích nghi và phát triển, tạo nên những chủng loại trà độc đáo và quý hiếm.

Hành trình tiến hóa của cây trà trên đất Trung Hoa vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Nhờ sự giao thoa văn hóa, trao đổi thương mại và sự sáng tạo của con người, cây trà đã được lai tạo thành vô số giống mới, mang đến cho thế giới trà một bức tranh muôn màu muôn vẻ, với hương vị và đặc tính riêng biệt.

Con đường Tây Nam:

  • Khí hậu: Ẩm ướt, mưa nhiều, thích hợp cho cây trà sinh trưởng nhanh.
  • Đặc điểm cây trà: Chiều cao 4-20 m, lá dài 12-24 cm, rộng 6-8 cm. Hoa 5-16 cánh. Hạt hình dạng quả thông.
  • Các loại trà nổi tiếng: Da Li, Vân Nam, trà Myanmar, Puer (Phổ Nhĩ).

Con đường Đông Nam:

  • Khí hậu: Nóng quanh năm, mưa nhiều, nhiệt độ chênh lệch không quá lớn.
  • Đặc điểm cây trà: Chiều cao thấp hơn, lá nhỏ hơn, vị thanh hơn.
  • Giống trà: Trà xanh, trà trắng, trà ô long.

Con đường Đông Bắc:

  • Khí hậu: Khô lạnh vào mùa đông, nóng ẩm vào mùa hè, nhiệt độ chênh lệch cao.
  • Đặc điểm cây trà: Biến đổi để thích nghi với khí hậu, lá nhỏ, vị chát hơn.
  • Giống trà: Trà đen.

Sự lan tỏa ra thế giới:

  • Trà đen: Được người phương Tây ưa chuộng, trồng nhiều ở Ấn Độ (vùng Assam).
  • Trà xanh: Giống trà Assam được người Pháp mang vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, trồng ở Thái Nguyên, Bảo Lộc.

Nguồn gốc thứ ba về trà Ô Long tại Việt Nam:

Trà Ô Long là một loại trà thuộc vào giai đoạn phát triển thứ hai của trà, có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Trước đây, trà Ô Long chủ yếu được sản xuất ở ba tỉnh Phúc Kiến, Đài Loan và Quảng Đông. Bao gồm 4 loại tiêu biểu: Trà núi đá Vũ Di (Bắc Phúc Kiến), Trà Thiết Quan Âm An Khê (Nam Phúc Kiến), Trà Ô Long Đài Loan và Trà Bảo Chung.

Năm 1992, giống trà Ô Long được du nhập vào Việt Nam và phát triển mạnh mẽ tại khu vực Đà Lạt - Lâm Đồng do khí hậu ôn đới tương đồng với vùng núi cao nguyên của Đài Loan. Trà Ô Long được chế biến bằng quy trình bán lên men đặc biệt, tạo nên hương vị thơm ngon tự nhiên và màu sắc độc đáo. Nhờ hàm lượng Polyphenol dồi dào, trà Ô Long mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe và sắc đẹp như: hỗ trợ giảm cân, tăng cường hệ miễn dịch, chống lão hóa,...

Trồng và thu hoạch[sửa | sửa mã nguồn]

Camellia sinensis là loài thực vật thường xanh mọc chủ yếu trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.[7] Nhiều giống cũng có thể thích nghi với khí hậu biển và được trồng đến tận phía bắc như Pembrokeshire ở Đảo Anh lục địa[8]Washington ở Hoa Kỳ.[9]

Lá của Camellia sinensis, cây chè
Mặt dưới lá chè ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, Việt Nam

Cây trà được nhân giống từ hạt và cắt; nó mất khoảng 4 đến 12 năm để cây ra hạt giống, và khoảng 3 năm trước khi một cây mới sẵn sàng cho thu hoạch.[7] Ngoài khu 8 hay vùng khí hậu ấm hơn, cây trà cần ít nhất 1270 mm lượng mưa mỗi năm và môi trường đất chua.[10] Nhiều cây trà chất lượng cao được trồng ở những độ cao lên đến 1.500 m (4.900 ft) so với mực nước biển. Ở độ cao này, cây phát triển chậm hơn, chúng cho ra mùi vị đặc biệt hơn.[11]

Hai giống thường được trồng là Camellia sinensis var. sinensis, được dùng làm trà ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, và giống Camellia sinensis var. assamica, được dùng trong Pu-erh và trà Ấn Độ (không phải Darjeeling). Trong các giống thực vật này, có nhiều chủng và giống vô tính hiện đại. Kích thước lá là tiêu chuẩn chính trong việc phân loại cây trà, với 3 cách phân loại cơ bản là,[12] Assam, đặc trưng bởi lá lớn nhất; trà Trung Quốc, đặc trưng bởi lá nhỏ nhất; trà Campuchia, đặc trưng bởi lá có kích thước trung bình.

Cây chè lớn cao đến 16 m (52 ft) nếu không bị tác động,[7] nhưng các loại cây trồng thường được tỉa cành để độ cao của chúng ngang với thắc lưng nhằm để tuốt (thu hoạch). Do vậy, khi tỉa thường xuyên và thân thấp thì có nhiều chồi non và làm tăng chất lượng trà.[13] Chỉ có 1-2 in phần lá trên cùng của cây được chọn để hái.[14] Một cây trưởng thành cho lá trong vòng 7 đến 15 ngày trong mùa phát triển.

Sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2003, sản lượng lá trà trên thế giới hàng năm là 3,21 triệu tấn.[15] Đến năm 2010, sản lượng trà của thế giới vượt mức 4,52 triệu tấn.[15] Nước sản xuất lớn nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Sri Lanka, và Thổ Nhĩ Kỳ.

Bảng dưới đây thể hiện sản lượng lá trà (tấn) xếp theo các nước sản xuất nhiều nhất. Dữ liệu theo FAO của Liên Hợp Quốc đến tháng 2 năm 2012.[15]

Hạng Quốc gia[15] 2008 2009 2010 2011
1  Trung Quốc 1.274.984 1.375.780 1.467.467 1.640.310
2  Ấn Độ 987.000 972.700 991.180 1.063.500
3  Kenya 345.800 314.100 399.000 377.912
4  Sri Lanka 318.700 290.000 282.300 327.500
5  Thổ Nhĩ Kỳ 198.046 198.601 235.000 221.600
6  Việt Nam 173.500 185.700 198.466 206.600
7  Iran 165.717 165.717 165.717 162.517
8  Indonesia 150.851 146.440 150.000 142.400
9  Argentina 80.142 71.715 88.574 96.572
10  Nhật Bản 96.500 86.000 85.000 82.100
Tổng Thế giới 4.211.397 4.242.280 4.518.060 4.321.011

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Góc trà đàm ở một ngôi chùa tại Việt Nam

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Fuller, Thomas (ngày 21 tháng 4 năm 2008). “A Tea From the Jungle Enriches a Placid Village”. The New York Times. New York. tr. A8.
  2. ^ Mair & Hoh 2009, tr. 29–30.
  3. ^ “Lịch sử của trà (Phần 1/2)”. Trà bà Vân. 17 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ “Bánh chưng”, Wikipedia tiếng Việt, 31 tháng 3 năm 2024, truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024
  5. ^ Rõ, Không. “Trương Chi Mỵ Nương – Wikisource tiếng Việt”. vi.wikisource.org. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  6. ^ “Hùng Vương”, Wikipedia tiếng Việt, 20 tháng 6 năm 2024, truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024
  7. ^ a b c “Camellia Sinensis”. Purdue University Center for New Crops and Plants Products. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
  8. ^ Turner, Robin (ngày 3 tháng 10 năm 2009). “Duo plant tea in Wales”. Wales Online. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  9. ^ “Tea” (PDF). The Compendium of Washington Agriculture. Washington State Commission on Pesticide Registration. 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  10. ^ Jim Rolfe & Yvonne Cave (2003). Camellias: A Practical Gardening Guide. Timber Press. ISBN 0-88192-577-2.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Pruess, Joanna (2006). Tea Cuisine: A New Approach to Flavoring Contemporary and Traditional Dishes. Globe Pequot. ISBN 1-59228-741-7.
  12. ^ Mondal, T.K. (2007). “Tea”. Trong Pua, E.C.; Davey, M.R. (biên tập). Biotechnology in Agriculture and Forestry. 60: Transgenic Crops V. Berlin: Springer. tr. 519–520. ISBN 3-540-49160-0.
  13. ^ Britannica Tea Cultivation. Truy cập June 2007.
  14. ^ Elizabeth S. Hayes (1980). Spices and Herbs: Lore and Cookery. Courier Dover Publications. tr. 74. ISBN 0-486-24026-6.
  15. ^ a b c d Food and Agriculture Organization of the United Nations—Production FAOSTAT. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

(tiếng Việt)

(tiếng Anh)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]